3.Kết quả theo tiêu chí đánh giá chính (Tỷ lệ phát hiện rối loạn lưỡng cực)
Nhận xét: -Tỷ lệ lưỡng cực phát hiện bằng thang tầm soát hưng cảm HCL-32R là 30,5%
-Tỷ lệ lưỡng cực phát hiện bằng bảng câu hỏi rối loạn khí sắc MDQ là 27,4%
-Tỷ lệ lưỡng cực theo tiêu chuẩn của DSM-IV là 29,5%.
4. Một số tiêu chí đánh giá phụ:4.1 Rối loạn lưỡng cực với tuổi khởi phát bệnh.
Nhận xét: 35,6 % khởi phát trước 20 tuổi và 60,6 % rối loạn lưỡng cực khởi phát trước 25 tuổi.
4.2 Rối loạn lưỡng cực với giới tính.
Nhận xét: Với Chi-Square = 0,143, df=1. => p= 0,705. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Không có sự khác biệt giữa nam và nữ mắc rối loạn lưỡng cực.
5.3 Rối loạn lưỡng cực với tiền sử gia đình.
Nhận xét: 21,4% bệnh nhân rối loạn lưỡng cực có yếu tố tiền sử gia đình bị rối loạn lưỡng cực.
IV-BÀN LUẬN Qua phân tích 95 bệnh nhân trong nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có một tỷ lệ rối loạn lưỡng cực trên số bệnh nhân trong giai đoạn mắc trầm cảm. Theo nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ là 29,5%.
Tỷ lệ này cũng tương đương với tỷ lệ mà một số tác giả nghiên cứu trước đây: Theo Kaplan, tỷ lệ là 30%. Theo nghiên cứu BRIDGE Screening programme của tác giả Nguyễn Văn Thọ và cộng sự, nghiên cứu trên bệnh nhân người Việt Nam, có tỷ lệ là 28,79%. Nhưng tỷ lệ của chúng tôi thấp hơn tỷ lệ của tác giả Ghaemi và Cs năm 1999 là 40%, nghiên cứu tại Bệnh viện Tâm thần thành phố Hồ Chí Minh, năm 2008 có tỷ lệ 45,2%. Sự khác biệt này có thể do cách đánh giá của từng giai đoạn có khác nhau.
Về tuổi khởi phát rối loạn lượng cực, trong nghiên cứu của chúng tôi có 35,6 % bệnh nhân có cơn đầu tiên trước 20 tuổi và tới 60,6 % bệnh nhân khởi phát bệnh trước 25 tuổi. Tuổi khởi phát bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nhận định của một số tác giả đưa ra: Theo Ghaemi SN năm 2000, Rối loạn lưỡng cực thường khởi phát sớm ở lứa tuổi thanh thiếu niên, đỉnh điểm từ 12 đến trước 25 tuổi, tuổi khởi phát trung bình 21 tuổi.
Về giới tính: Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có sự khác biệt giữa nam và nữ bị rối loạn lưỡng cực. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây.
Về tiền sử gia đình: Qua nghiên cứu các gia đình có người bị rối loạn cảm xúc, nhiều tác giả thừa nhận yếu tố di truyền trong căn nguyên sinh bệnh rối loạn cảm xúc nhưng không phải là yếu tố độc nhất gây bệnh (Phedotov). Một nghiên cứu trên 1020 người bị rối loạn khí sắc có 15,4 % số đó có người thân trong gia đình mắc bệnh. Trong nghiên cứu của chúng tôi có tới 21,4 % bệnh nhân rối loạn lưỡng cực có tiền sử gia đình bị rối loạn lưỡng cực, tỷ lệ trong nghiên cứu của chúng tối cao hơn có thể do số lượng bệnh nhân trong nghiên cứu còn hạn chế.
Rối loạn lưỡng cực, đặc biệt trầm cảm lượng cực đang là một khó khăn, thách thức trong việc phát hiện, chẩn đoán và cả trong điều trị. Ngay ở những nước có nền y học tiên tiến như ở Mỹ, một tỷ lệ lớn trầm cảm lưỡng cực chưa được phát hiện và chẩn đoán, điều trị đúng vẫn còn chậm trể nhiều năm. Việc chẩn đoán không đúng trầm cảm lưỡng cực đưa đến điều trị không phù hợp và kết quả gây nên cơn hưng cảm, gia tăng mức tái phát nhanh, diễn tiến bệnh xấu hơn, không đáp ứng với điều trị, nguy cơ tự sát cao. Về mặt xã hội, gây tăng chi phí điều trị, làm mất sức lao động xã hội.
Việc điều trị rối loạn lưỡng cực, đặc biệt trầm cảm lưỡng cực vẫn là một thách thức, hiện nay chưa có một phương pháp điều trị hiệu quả đối với tất cả các pha, mà mục tiêu điều trị cuối cùng là ổn định khí sắc. Trên thế giới có nhiều hướng dẫn điều trị như: Nice 2006, Canmat 2009, WFSBP 2010, BAP 2009. Trong các hướng dẫn này, các thuốc được sử dụng hàng đầu là thuốc ổn định khí sắc: Lithium, Valproat, Lamotrigin…Tiếp đến là các thuốc an thần kinh mới như Quetiapine, Olanzapine. Riêng hướng dẫn của WFSBP, Quetiapine được đưa lên hàng đầu. Các thuốc chống trầm cảm được dùng hạn chế hơn ngay cả trong trầm cảm lưỡng cực týp II vì nguy cơ gây chuyển pha ( Hưng cảm, trạng thái hỗn hợp), chu kỳ nhanh nguy cơ tự sát cao, trong điều trị dài hạn gây thay đổi diễn biến bệnh. Nên khi cần phối hợp với thuốc chống trầm cảm cần cân nhắc kỹ và lựa chọn thuốc chống trầm cảm ít gây chuyển pha: SSRI, Fluoxetine, Paroxetine…Để phát hiện và chẩn đoán sớm trầm cảm lưỡng cực, chúng ta nên sử dụng công cụ sàng lọc MDQ hoặc HCL-32R để phát hiện giai đoạn hưng cảm, hưng cảm nhẹ trong tiền sử của người bệnh.
V-KẾT LUẬN. 1-Rối loạn lưỡng cực thường gặp trên bệnh nhân trong giai đoạn mắc trầm cảm. Theo nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ là 29,5%.
2-Tỷ lệ phát hiện lưỡng cực giữa nam và nữ là tuơng đương nhau.
3- Tuổi khởi phát: Chúng tôi nhận thấy 60,6 % bệnh nhân khởi phát bệnh trước 25 tuổi.
4- Tiền sử gia đình: Trong nghiên cứu của chúng tôi có tới 21,4 % bệnh nhân có tiền sử gia đình bị rối loạn lưỡng cực.