Căn
cứ Kế hoạch 06-KH/ĐU ngày 14/5/2025 về Tổ chức hội nghị học tập, quán triệt,
triển khai Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới
công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về
phát triển kinh tế tư nhân. Tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2 vào lúc 08 giờ
sáng ngày 18/5/2025, Đảng ủy Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2 tổ chức Hội nghị Học
tập nghị nghị quyết qua hình thức theo dõi truyền hình trực tiếp trên sóng VTV1
Đài Truyền hình Việt Nam tại hội Trường lớn của Bệnh viện. Thành phần tham dự gồm:
Chủ trì: Đồng chí Nguyễn Hữu Thắng, Bí thư
Đảng ủy, Giám đốc bệnh viện;
Các đồng chí ủy viên Ban Chấp hành đảng bộ
Bệnh viện;
Các đồng chí cấp ủy viên của 9 chi bộ trực
thuộc Đảng ủy Bệnh viện;
Toàn thể cán bộ, đảng viên các chi bộ trực
thuộc Đảng bộ Bệnh viện;
Các đồng chí Trưởng, phó các tổ chức đoàn
thể Bệnh viện.
Cũng
theo chương trình, tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trình bày
Chuyên đề "Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày
04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và kế hoạch thực hiện
Nghị quyết số 68-NQ/TW". Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trình bày chuyên
đề "Nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30/4/2025
của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và kế hoạch thực hiện Nghị quyết số
66-NQ/TW"
Tiếp
theo đó, Tổng Bí thư Tô Lâm có phát biểu quan trọng chỉ đạo Hội nghị. Cuối
cùng, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Nguyễn Trọng Nghĩa có phát biểu tiếp thu
ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và hướng dẫn việc quán triệt, tuyên
truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW của
Bộ Chính trị.
Nghị quyết số 66-NQ/TW
xác định mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng,
đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi với cơ chế tổ chức thực hiện
nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục,
thông suốt của các cơ quan sau sắp xếp tổ chức bộ máy, tháo gỡ vướng mắc phát
sinh từ thực tiễn, mở đường cho kiến tạo phát triển, huy động mọi người dân và
doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội để đến năm 2030, Việt Nam
là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Năm 2025,
cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những "điểm nghẽn" do quy định pháp luật.
Năm 2027,
hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật bảo đảm cơ sở
pháp lý đồng bộ cho hoạt động của bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền 3 cấp.
Năm 2028,
hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, góp phần đưa môi trường đầu
tư của Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN.
Nghị
quyết xác định tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam có hệ thống pháp luật chất lượng
cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến và phù hợp với thực
tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ
hiệu quả quyền con người, quyền công dân; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở
thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội; quản trị quốc gia hiện đại
với bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập
cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.
Nghị quyết số 68-NQ/TW
xác định mục tiêu đến năm 2030, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất
của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học
công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng lợi mục
tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị và các chủ
trương, đường lối khác của Đảng.
Phấn
đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn
dân. Có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tốc độ
tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng 55-58% GDP, khoảng 35-40% tổng thu
ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động;
năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm